Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/gan-9000-nguoi-chet-do-tai-nan-giao-thong-nam-2014-520456.html

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2014

Những sự thật không thể chối bỏ (phần 2) - Hồ Chí Minh và vai trò trong công hàm 1958

Những sự thật không thể chối bỏ (phần 2) - Hồ Chí Minh và vai trò trong công hàm 1958

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhu9aqi_BpwSeOn7GVoy0gWWr0TFOq6ZQYXn72pKi5tieq4jFWhyphenhyphenkBqZzodb7UoWJahLSC7BveFzvPcWnZ4SOdoHqbyLqn4O-nk3Wlcrmsb-VIR6hVGwB6GqxiFqQYsxtgvOe52WVuf45M/s1600/Phamvandong-hochiminh.jpg

 
Những sự thật không thể chối bỏ (phần 2)
Hồ Chí Minh và vai trò trong công hàm 1958
Tác giả Đặng Chí Hùng
Thực hiện Audio Lam Sơn 719

Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Để nối tiếp chuỗi bài về những sự thật không thể chối bỏ, tôi xin trình bày về các vấn đề: Có hay không công hàm 1958, công hàm đó có phải là công hàm bán nước hay không và vai trò của ông Hồ Chí Minh trong công hàm bán nước 1958 cho Trung cộng. Từ trước đến giờ chúng ta luôn coi nó là tác phẩm của ông Phạm Văn Đồng. Nhưng sự thực có phải thế không. Vấn đề này không mới nhưng nó được chứng minh theo hướng mới và quan trọng hơn là vai trò của ông Hồ trong sự kiện này. Tôi xin trình bày dưới bài viết này.
A. Sự thật về công hàm 1958: 
1. Tuyên bố của phía Trung cộng về chủ quyền ở HS-TS của VN: 
Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung cộng mà đại diện là thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố về chủ quyền hải đảo của Trung cộng. Tuyên bố này được thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân. Đây là các links dẫn chứng về tuyên bố này của Trung cộng: 
Nội dung của tuyên bố trên của Trung cộng được dịch ra tiếng Việt như sau:
Trước hết là bản dịch của dịch giả Trần Đồng Đức: 
Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958

Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa)

Đại biểu ủy viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan việc phê chuẩn quyết nghị công bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa

(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)

Quyết nghị

Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa 

Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải

Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc.

* Hai: Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thủy vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lý là lãnh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc. 

* Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lãnh hải vào không gian trên lãnh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lãnh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. 

* Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp. 
(Chú ý ở đây: Tây Sa và Nam Sa là cách gọi của Trung Cộng về HS-TS của Việt Nam) 
Nội dung bản dịch này là chính xác bản thân chúng ta có thể kiểm chứng. Tôi xin nêu ra đây một minh chứng bản dịch này là chính xác vì vấn đề chính trong tuyên bố Trung cộng tuyên bố về chủ quyền HS-TS đã được tờ Đại Đoàn Kết (Báo của trung ương đảng cộng sản Việt Nam công nhận). Đây là links của bài báo đó trên tờ Báo Đất Việt(Chi nhánh của BQP cộng sản): 
Trong bài viết của báo Đại Đoàn Kết có đoạn: Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). 
Kết luận 1: Trung quốc rõ ràng đã tuyên bố HS-TS là của họ trong tuyên bố 4/9/1958 của Chu Ân Lai.Cả dư luận lẫn đảng cộng sản Trung quốc, cộng sản Việt Nam công nhận. 
2. Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng: 
Ngay sau khi tuyên bố của Trung cộng về việc HS- TS là của họ thì ông Phạm Văn Đồng lúc đó là thủ tướng Việt Nam Dân Chủ cộng hòa (VNDCCH) tiến hành việc đưa ra công hàm ký ngày 14/9/1958. Công hàm này có bản photocopy như sau: 

Công hàm này ngoài ra thời điểm đó còn được các tờ báo Nhân dân thời điểm đó đưa tin (Báo nhân dân là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam). Đây là hình ảnh của Báo nhân dân đã đưa tin về sự kiện này: 
và ngay sau đó thì sáng ngày 21.9.1958, ông Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Trung Quốc, đã gặp Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm của ông Phạm Văn Đồng đến ông Chu Ân Lai. 
Trước đó, năm 1956, ông Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao TQ, Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam: chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về TQ.
Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài "Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa".
Năm 1977 cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông về công hàm này như sau:"đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi".
Sau đó ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao, trong một cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 nói như sau: “Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này."
Kết luận 2: Căn cứ vào nội dung đưa tin của tờ báo chính thức của đảng cộng sản Việt Nam, và những gì nội dung đọc được trên công văn chính thức của ông Phạm Văn Đồng thì có thể kết luận. Những gì ông Đồng công nhận tuyên bố HS- TS của Trung cộng là có thật. Đây hoàn toàn là thông tin từ cơ quan của đảng cộng sản Việt Nam tuyên bố. 

3. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam lúc đó: 
Trong thời điểm Trung cộng tuyên bố chủ quyền của mình tại HS-TS (vốn của Việt Nam) thì nước Việt chúng ta chia làm hai. Miền Bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) theo đường lối cộng sản độc tài. Miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) theo đường lối dân chủ tự do. Lúc này các hòn đảo HS-TS đang thuộc quyền kiểm soát của VNCH. Chúng ta phải nhìn nhận rằng dù là VNCH hay VNDCCH nắm giữ đều có một điểm là: HS-TS là của Việt Nam. Nó chưa bao giờ là chủ quyền của Trung cộng.
Thời điểm này, miền nam đang tiến hành chính sách “Người cày có ruộng” và phát triển kinh tế của tổng thống Ngô Đình Diệm. Miền bắc cũng tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng. Ngoài ra chính phủ VNDCCH dưới sự lãnh đạo độc tài của đảng cộng sản đang muốn tranh thủ sự hậu thuẫn từ LX, TC để tiến hành chiến tranh với VNCH. 
Điểm chính ở đây là cả công bố của phía Trung cộng và công hàm của ông Phạm Văn Đồng đều diễn ra sau khi VNCH tiến hành công bố tái xác lập về chủ quyền của VNCH tại HS-TS. Tuyên bố chủ quyền của VNCH diễn ra vào tháng 4 năm 1956. Như vậy VNCH đã tiếp bước các tiền nhân giữ đất biển bao đời của Việt Nam và tuân thủ việc công khai chủ quyền sau hiệp định Geneve 1954. Đảng cộng sản Việt nam đã không vì lợi ích của dân tộc mà 2 năm sau đó, công khai ủng hộ kẻ thù cướp đoạt trái phép lãnh thổ Việt Nam. VNCH chỉ chịu mất chủ quyền trên đảo HS năm 1974 sau trận hải chiến mà ai trong chúng ta cũng biết về người anh hùng Ngụy Văn Thà. Sự kiện này tôi xin không cần nhắc lại. Tôi xin cung cấp thêm về tài liệu của phía bộ ngoại giao VNCH phản đối công khai việc làm phi pháp của Trung cộng:
4. Kết luận chung về sự kiện này: 
Tôi xin nêu lên quan điểm chứng minh rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là công hàm phi pháp và bán nước.
Qua kết luận 1 và kết luận 2 chúng ta thấy một điều hiển nhiên. Trung cộng tuyên bố sai phạm về chủ quyền của mình tại HS- TS. Ông Phạm Văn Đồng là thủ tướng VNDCCH lúc đó đã không những phản đối mà lại công nhận điều tuyên bố sai phạm là đúng. Như vậy đã tiếp tay cho kẻ thù xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Đây là công hàm bán nước.
Ngoài ra, tôi xin chứng minh các luận điệu biện hộ của phía đảng cộng sản Việt Nam sau khi bị lộ tẩy công văn này là càng sai trái và ngoan cố.
Đầu tiên, Trên trang chủ Biendong.net (trang của chính phủ và những người cộng sản Việt Nam) có bài (Links: http://biendong.net/binh-luan/236-v-cai-gi-la-ong-phm-vn-ng-a-chi-b-ch-quyn-i-vi-hai-qun-o-hoang-sa-va-trng-sa.html). Trong đó có đoạn: Công hàm nêu trên của Phạm Văn Đồng có hai nội dung hết sức đơn giản và rõ ràng, đó là ông Phạm Văn Đồng ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý và chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. 

Trong công hàm của ông Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Chu Ân Lai đã nêu. 

Do vậy, chỉ xét về câu chữ thôi cũng dễ dàng nhận thấy rằng mọi suy diễn cho rằng ông Phạm Văn Đồng đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc và không có cơ sở pháp lý. 
Bài này viện ra lý do việc ông Đồng chỉ công nhận 12 hải lý chứ không nêu rõ việc HS-TS là của Trung cộng. Tôi xin đưa ra luận giải như sau. Đúng là về câu chữ không có HS-TS của Trung quốc trong công hàm của ông Phạm Văn Đồng. Nhưng tại sao chính phủ VNDCCH không phản đối nội dung tuyên bố của phía Trung Cộng? Trong công hàm ghi rõ “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung quốc."
Về nguyên tắc công văn cấp nhà nước không thể có sự nhập nhèm đúng và sai, nhất là vấn đề lãnh thổ. Vậy khi tuyên bố của đối phương bao gồm cả phần đất của mình, không lý nào đảng cộng sản và chính phủ VNDCCH lại không biết. Và cũng không thể trả lời mập mờ như thế.
Vấn đề tôi xin nêu ở đây. Nếu là chủ trương bán nước thì đã quá rõ. Còn nếu biện hộ là tuyên bố chung chung thì cũng không thể được vì một chính phủ làm việc lại vô trách nhiệm ra những tuyên bố sai trái như vậy cũng hoàn toàn không thể vô can. Dù là cố tình hay “Vô ý” như cách lý giải của đảng cộng sản hiện nay cũng có tội với dân tộc.
Thứ hai, có một số ý kiến nói công hàm 1958 không được quốc hội Việt Nam thông qua.Trên biendong.net có đoạn: Sự thực là công hàm nêu trên của Phạm Văn Đồng không được đưa ra để Quốc hội Việt Nam xem xét thông qua. Cho tới nay Trung Quốc cũng không đưa ra được bất kỳ chứng cứ gì minh chứng là Công hàm của Phạm Văn Đồng đã được Quốc hội Việt Nam thông qua.
Nếu viện lý do này thì chúng ta thấy rằng ông Phạm Văn Đồng đã vi hiến và quốc hội do đảng cộng sản dựng lên cũng vô trách nhiệm. Lý do này có thể chấp nhận việc không qua quốc hội là đúng vì thực ra quốc hội VN là của cộng sản. Các đại biểu quốc hội là nghị gật nên việc không thông qua không phải là vô lý. Việc Một thủ tướng vi hiến, một quốc hội vô trách nhiệm với đất đai của tổ quốc cũng là có tội với dân tộc, bán nước. Vì đây là vấn đề đất đai biển đảo quan trọng. Không cho phép bất cứ cá nhân nào làm việc như vậy.
Thứ ba, Có ý kiến biện luận rằng lúc đó 2 đảo HS-TS là chủ quyền của VNCH chứ không phải của VNDCCH nên tuyên bố của ông Đồng không có gì sai. Trong bài báo của đại đoàn kết có viết: 
Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). 
Về lý do này chúng ta lại thấy sự sai trái của phía đảng cộng sản Việt Nam. Ở đây dù là đất của VNCH hay VNDCCH đều là phần đất của lãnh thổ Việt Nam. Như vậy dù nó có quản lý dưới tay ai cũng vẫn là của người Việt Nam chứ không phải của Trung cộng.
Đảng cộng sản tuyên bố chiến tranh với miền nam là để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Việc thống nhất này bao gồm cả việc lấy đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Vậy thì tại sao họ đã nghĩ được phần đất miền nam là của Việt Nam thống nhất, sao lại không nghĩ chủ quyền của Việt Nam bao gồm cả HS-TS. Chỉ có một lý do duy nhất đó là HS-TS là của Trung cộng (vì họ đã bán cho Trung Cộng) hoặc lý do thống nhất đất nước là lừa bịp. Dù lý do bán đất đảo hay lý do thống nhất lừa bịp (tôi sẽ có bài sau này) cũng có tội với dân tộc.
Thứ tư, trong dư luận bấy lâu nay có tin rằng (không chính thức nhưng từ miệng của các bộ đội cộng sản lão thành) lúc đó Trung Cộng mạnh, giúp VNDCCH nên công hàm trên nhằm mượn tay Trung Cộng để lấy HS-TS từ tay VNCH cho VNDCCH. Lý do này cũng sai.Vì từ trước đến nay qua 4000 năm lịch sử giữ nước chúng ta chưa bao giờ quên mộng xâm lăng của giặc Tàu. Đảng cộng sản nếu dùng mưu đó cũng là phạm tội “Cỏng rắn cắn gà nhà”, tiếp tay cho kẻ thù. Như vậy đảng cộng sản và ông Đồng đã không đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu mà chỉ đặt lợi ích của “Đảng cộng sản anh em” lên trên. Ngoài ra nếu viện dẫn lý này tại sao cho đến giờ phút này Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không tuyên bố rõ ràng Trung Cộng xâm chiếm HS-TS hay chỉ dừng lại ở những câu chung chung như nhai lại của các phát ngôn viên ngoại giao. Hay cụ thể là việc đàn áp biểu tình chống xâm lược.

Kết luận chung: Rõ ràng với công hàm 1958, đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ, ông Đồng đã bán nước cho Trung Cộng. Dù có biện luận dưới 4 lý do hiện nay đảng cộng sản đang rêu rao cũng đều hoặc vô lý, hoặc cũng có tội với dân tộc.
B. Vai trò của ông Hồ Chí Minh trong sự kiện công hàm 1958: 
Công hàm thì ký tên ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng VNDCCH lúc đó. Từ trước đến nay chúng ta chỉ trích ông Đồng. Điều này đúng. Tuy nhiên chỉ là nửa sự thật. Vai trò của ông Hồ trong sự kiện này rất lớn. Tôi xin chứng minh sau đây. 
1. Về hệ thống chính trị của đảng cộng sản Việt Nam: 
Về hệ thống chính trị của Việt Nam, trên wiki: 
(links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chính_trị_Việt_Nam) có đoạn: Cách tổ chức chính trị ở Việt Nam được sắp xếp theo trục dọc với Đảng Cộng Sản giữ địa vị trên hết, không như mô hình tam quyền phân lập như các tổ chức chính phủ dân chủ nghị viện khác...

Hiến pháp 1992 tái khẳng định vai trò ưu tiên của Đảng Cộng sản tuy nhiên cũng theo bản hiến pháp đó thì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là tổ chức duy nhất nắm quyền lập pháp. Cơ quan này có trách nhiệm to lớn trong việc giám sát mọi chức năng của chính phủ.

Bộ chính trị với 15 thành viên hiện nay, được bầu ra vào tháng 1 năm 2011 và do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, quyết định chính sách của chính phủ; Ban Bí thư gồm 10 người giám sát việc thi hành chính sách hàng ngày. Dù đã có một số nỗ lực nhằm giảm sự chồng chéo giữa các vị trí của đảng và chính quyền, cách quản lý này hiện vẫn đang được áp dụng và mở rộng.
Như vậy bỏ qua vấn đề số thành viên (khác so với 1958) thì lúc nào vai trò của đảng cộng sản cũng là số 1, mà đại diện cho đảng cộng sản cầm quyền mọi quyết định là Bộ Chính trị. Chính phủ mà đứng đầu là ông Phạm Văn Đồng không thể thông qua một quyết định một quyết định to lớn liên quan đến như vậy.
Tôi xin dẫn chứng thêm về vai trò của bộ chính trị với nhà nước. Đây là đoạn trên trang của đảng cộng sản Việt Nam. 
Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội và được thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ quản l‎ý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Kết luận 1: Như vậy chúng ta khẳng định rằng quyết định của ông Đồng không thể không thông qua đảng cộng sản nhất là bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam. 
2. Ông Hồ Chí Minh có vai trò gì? 
Công hàm của ông Phạm Văn Đồng thủ tướng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, vì vậy công hàm chỉ có thể được gởi đến Chu Ân Lai sau khi đã được thông qua, được sự đồng ý và chấp thuận của Bộ Chính Trị. Ông Hồ Chí Minh lúc đó là Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch nhà nước, nghĩa là ông đứng đầu BCT và đứng đầu chính phủ. Vậy không thể có chuyện ông Hồ không biết, không có ý kiến gì. Chính ông Đồng (trong trích dẫn của tôi ở phần trên đã nói: “đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi"). Vậy rõ ràng ông Đồng thừa nhận công hàm đó là có thật, ông phải thông qua ai nó mới được chuyển đi cho phía Trung Cộng? Đó chính là ông Hồ Chí Minh.
Qua hệ thống chính trị và vai trò chúng ta đã biết ông Hồ Chí Minh trong những năm đó thì không thể có chuyện ông Hồ không biết, không thông qua cho công hàm ông Đồng ký. Nếu giả sử ông Đồng không thông qua quốc hội, không thông qua ông Hồ và bộ chính trị liệu ông Đồng có bị trừng trị hay không? Rõ ràng là ông Đồng sẽ bị trừng trị. Nhưng trên thực tế ông Đồng lại yên vị và khỏe mạnh, không tỳ vết. Như vậy ta có thể kết luận ông Hồ đã đồng thuận với việc ký công hàm này.
Rõ ràng Phạm Văn Đồng đã không tự mình quyết định. Ông chỉ làm nhiệm vụ thông tin cho phía Trung Cộng biết “Chính phủ VNDCCH tán thành…” cho dù bản thân ông có muốn tán thành hay không. Chính phủ đó do Hồ Chí Minh đứng đầu và đó là một Chính phủ do Đảng lãnh đạo! Về mặt Đảng, ông Hồ cũng là nhân vật chóp bu: Chủ Tịch kiêm Tổng Bí Thư Đảng. Quyền lực của Tổng Bí Thư Đảng cùng với BCT Đảng luôn luôn là quyền tuyệt đối.
Tôi xin ví dụ một ví dụ nhãn tiền ngay trước mắt. Quốc hội Việt Nam bàn cãi, tha hồ đưa ra nghị quyết này khác. Nhưng khi Đảng bảo rằng Đảng đã quyết, thì chuyện Quốc Hội cãi nhau, rồi đồng thuận, rồi đưa ra Nghị quyết… đều trở thành trò hề. Cụ thể trong vụ Bauxite Tây Nguyên là một trong trăm ngàn ví dụ. 
Ông Hồ là chủ tịch nước, kiêm tổng bí thư. Mọi quyết định nếu không do ông và bộ chính trị chỉ đạo thì một chức vụ hữu danh vô thực (thời điểm đó) của ông Đồng không làm gì được. 
Vậy dù có vai trò chủ đạo hay chỉ là đồng thuận thì ông Hồ cũng có tội đồng lõa với ông Đồng ký một văn bản bán nước, công nhận chủ quyền kẻ thù trên phần đất của chính quê hương.
Ngoài ra, có một số ý kiến cho rằng thời điểm đó ông Hồ bị ông Lê Duẩn “nhiếp chính” và chèn ép. Họ đổ tội cho ông Lê Duẩn ép ông Hồ làm việc này. Tôi xin trả lời cho các bạn hai vấn đề. Thứ nhất thời điểm đó ông Duẩn chỉ là cán bộ không thực sự có vai trò to lớn trong lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Theo wiki(links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Lê_Duẩn):
Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.

Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
Như vậy thì ông Duẩn mãi năm 1960 mới có vai trò chính trị đáng kể, còn 1957 - trước 1960 ông đơn thuần chỉ là cán bộ của ban bí thư chứ chưa phải la Bí thư thứ nhất như sau này. Vai trò chính trị vẫn trong tay ông Hồ. Ông Hồ chỉ thực sự bị cô lập, vai trò ông Duẩn chỉ thực sự rõ rệt sau năm 1960.
Tiếp theo, con người ông Lê Duẩn lại là con người có tư tưởng chống Trung cộng. Ông Duẩn cũng là một nguyên nhân chính trong cuộc chiến biên giới phía Bắc với Trung cộng. Ông Lê Duẩn chủ trương thân Liên Xô và chống Tàu nên phía Trung cộng đã rất tức giận trước các hành động cứng rắn của ông. Tất nhiên là cuộc chiến này còn nhiều nguyên nhân. Nhưng thực sự ông Lê Duẩn là cái gai trong mắt Trung Cộng, vì thế bảo ông Duẩn ép ông Hồ đồng ý công hàm 1958 là điều vô lý.
Qua bài này tôi đã chứng minh một sự thật là ông Đồng và ông Hồ đã thông qua công hàm 1958 để bán tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng. Vai trò của ông Hồ là hết sức rõ rệt trong sự kiện này. Chúng ta có thể thấy đảng cộng sản Việt Nam mà đại diện trong sự kiện này là ông Hồ và ông Đồng là những tội đồ của dân tộc.

Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và Hồ Chí Minh (phần 4)

Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và Hồ Chí Minh (phần 4)

Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Trong giai đoạn từ năm 1969 cho đến năm 1975, đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục gây nên những tội ác lớn lao đối với dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa nói riêng. Đội ngũ tay chân thân tín của ông Hồ Chí Minh như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Trinh, Võ Nguyên Giáp... tiếp tục con đường đi của Hồ Chí Minh sau khi chết năm 1969 để tiến hành chính sách khủng bố, gây chiến tranh vi phạm hiệp định Paris 1973. Giai đoạn này chúng tôi xin gửi tới quý vị 3 nội dung tố cáo tội ác của đảng cộng sản Việt Nam như sau:

- Vi phạm hiệp định Paris 1973.

- Sử dụng trẻ em trong chiến tranh - vi phạm luật về chiến tranh và sử dụng trẻ em.

- Tiếp tục gây chiến tranh phi nghĩa với VNCH, gây đau thương cho dân tộc trong đó có những thảm họa kinh hoàng như “Đại lộ kinh hoàng” 1972 tại Quảng Trị, ám sát, khủng bố người dân và các nhân sỹ của VNCH.

I. Vi phạm hiệp định Paris năm 1973: 

Đầu năm 1973 Hiệp định Paris được ký kết, nhân dân Việt Nam đặt kỳ vọng vào lời cam kết của cộng sản trong Hiệp định hòa bình, hòa giải dân tộc, bầu cử tự do với chính phủ 3 thành phần. Sau đó Nam Bắc ngồi lại với nhau, từ từ thống nhất trong hòa bình, để cho dân Việt Nam cả 3 miền được an hưởng thái bình. Hoa Kỳ rút quân và cam kết viện trợ nhiều tỉ đô la giúp tái thiết hai miền Nam Bắc. Đây là cơ hội tốt nhất cho cả dân tộc Việt Nam chúng tôi chấm dứt cảnh hai nhà cùng nòi giống tàn sát lẫn nhau. Hai miền Nam Bắc được thế giới tự do tiếp cận, giúp kiến thiết đất nước trong hòa bình.

Người đứng đầu phái đoàn miền Nam Việt Nam, 
Ngoại trưởng Trần Văn Lắm (giữa) 
ký hiệp định Paris hôm 02/3/1973 tại Paris.

Nhưng chữ ký hiệp định chưa ráo mực, Cộng sản đã lập tức vi phạm Hiệp định, ào ạt chuyển quân và vũ khí vào Nam, chuẩn bị tổng tấn công. Đây là một minh chứng cho thấy thêm bản chất lừa đảo của đảng cộng sản Việt Nam, đã bỏ mất biết bao cơ hội chung sống hòa bình, xây dựng đất nước. Đúng như lời cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu từng nói: “Đừng tin những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Điều đó không lạ, bởi đảng cộng sản chưa bao giờ tôn trọng hiệp định, hiệp ước, lời nói hay lời hứa của họ. Vì vậy, cựu Trung Tá cộng sản Trần Anh Kim đã nói “cộng sản nói một đường làm một nẻo”.

Sau Hiệp định Paris, Mỹ bắt đầu rút quân, không can dự vào chiến trường Việt Nam. Hà Nội vui mừng tự do xâm lăng Miền Nam mạnh hơn. Cộng sản tiến đến đâu, dân Nam bỏ chạy về phía VNCH, lánh nạn cộng sản. Cộng sản phục kích trên quốc lộ, trên các con đường xuôi Nam, bắn thẳng vào đoàn dân chạy nạn. Nhiều nơi cộng sản phục kích hai đầu đoạn đường, tấn công, đoàn dân khốn khổ bị dồn cục, làm bia cho "giải phóng quân" tự do thảm sát. Máu đổ thịt rơi, tiếng kêu khóc của dân Nam vang trời, quân cộng sản vẫn không tha. Cộng sản Hà nội lập lại hành động tàn sát dân Nam giống như họ đã làm năm 1972 trong Mùa hè Đỏ lửa với Đại lộ kinh hoàng. Để thấy được điều này, chúng tôi xin gửi tới quý vị những dẫn chứng dưới đây.

Quá trình dẫn tới ký kết Hiệp định Paris 1973 như sau: Cuộc hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi ông Henry Kissinger, Cố vấn An ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái đoàn Thương thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp xúc bí mật với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những điều Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm trở nên bế tắc. Một mặt ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục trong 12 ngày vào cuối năm 1972. Mặt khác, chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến.

Ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ. Bốn ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150, 000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính phủ VNCH và Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này. Trong khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ.

Như vậy, trong thực tế thì người Mỹ đã thực hiện cam kết rút quân (sau này không can thiệp quân sự dẫn đến cộng sản có thể tự tung tự tác năm 1975), VNCH thì thực hiện đình chiến (trên thực tế chiến tranh Việt Nam thì quân đội VNCH ở thế phòng thủ). Trong khi đó đảng cộng sản đã không thực hiện nội dung của hiệp định Paris mà tiếp tục đưa quân, tăng viện để xâm chiếm trái phép VNCH. Xin nêu một số ví dụ để các quý vị thấy sự tăng cường của cộng sản sau hiệp định Paris để xé bỏ hiệp đinh, tiến hành xâm lược.

Đầu tiên, chúng ta có thể thấy được chủ trương xâm lược vi phạm hiệp định Paris năm 1973 qua đoạn trích dưới đây trong cuốn sách là hồi ký của tướng cộng sản Văn Tiến Dũng mang tựa đề "Đại thắng mùa xuân" có đoạn "Nhận thấy tình hình Mỹ không còn muốn chi viện cho địch, bộ chính trị và bộ tổng tham mưu họp khẩn trương thống nhất để tổng tấn công trên khắp miền Nam..." 

Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là chính các vị tướng của cộng sản cũng nhận thấy Mỹ đã bỏ rơi VNCH và nhân cơ hội này, cộng sản đơn phương xé bỏ hiệp định đã ký để xâm lược trái phép nước khác.

Cũng cần phải nói thêm về việc lý do thứ hai trong việc VNCH bị thất bại trong cuộc chiến chính nghĩa bảo vệ nền tự do dân chủ trước sự xâm lăng của cộng sản. Đó là sai lầm trong chiến lược ngoại giao của Mỹ cũng như cá nhân ngoại trưởng H. Kissinger. Điều này được thể hiện qua tài liệu đã được giải mật của chính phủ Mỹ. Đó là biên bản cuộc họp tại Bắc Kinh giữa Chu Ân Lai và H. Kissinger về vấn đề Việt Nam, Châu Á ngày 20 tháng 6 năm 1972 tại Bắc Kinh. Trong buổi họp này, Tiến Sĩ Henry Kissinger, Phụ Tá An Ninh của Tổng Thống Richard M. Nixon, và Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã thảo luận nhiều vấn đề thế giới và đặc biệt là giải quyết cuộc chiến Việt Nam. Tài liệu gồm 37 trang cho thấy sức mạnh và ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới. Từ trang 1 đến trang 26, Hoa Kỳ và Trung Cộng bàn thảo về tương quan giữa các quốc gia cùng an ninh toàn cầu. Đặc biệt từ trang 27 đến trang cuối, Kissinger và Chu Ân Lai bàn luận kế hoạch giải quyết vấn đề Đông Dương. Khai thác sự rạn nứt Trung - Nga năm 1969, Hoa Kỳ muốn tái lập bang giao với Trung Cộng. Bang giao với Trung Cộng sẽ giúp Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, lấy lại hết tù binh, giải quyết những bất ổn chính trị tại Hoa Kỳ và còn được khai thác thị trường to lớn trong lục địa. Để tái thiết ngoại giao với Trung Hoa, Kissinger đã nói với Thủ Tướng họ Chu: “Nếu chúng tôi sống chung được với một chính quyền cộng sản Trung Hoa, chúng tôi sẽ chấp nhận được ở Đông Dương”. Ngoài ra Kissinger cũng gián tiếp cam kết với Chu Ân Lai Hoa Kỳ không có ý định tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt.

Quý vị có thể tìm đọc nguyên bản tiếng Anh tại link sau: 

Tạm dịch một đoạn quan trọng trong số đó "Những Nhân Vật Tham Dự: Thủ Tướng Chu Ân; Lai Ch’iao Kuan-hua Phó Tổng Trưởng Ngoại Giao; Chang Wen-Chin, Phụ Tá Tổng Trưởng Ngoại Giao; Tang Wen-sheng, Chao-chu, Thông Dịch Viên Hai nhân viên ghi chú biên bản, Tiến Sĩ Henry A. Kissinger, Phụ Tá Tổng Thống về An Ninh Quốc Gia; Winston Lord, Nhân Viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia; John D. Negroponte, Nhân Viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia.

Ngày và Giờ: Thứ Ba, ngày 20 tháng 6 nắm 1972, 2:05 – 6:05 chiều

Địa Điểm: Đại Sảnh Đường Nhân Dân, Bắc Kinh.

Dưới đây là cuộc đàm thoại, thương lượng và trả giá giữa Henry A. Kissinger Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Richard M. Nixon và Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai về tương lai VNCH.”

Từ trang 27:

Tiến Sĩ Kissinger: Đó không phải là ý định của chúng tôi. Chúng tôi không có ý định thành lập một chế độ công quản - nó đòi hỏi một hoàn cảnh khác thường để chúng tôi thực hiện điều này. Không phải là ý đồ của chúng tôi để tạo ra một chế độ công quản. Chúng tôi thực có ý định tạo dựng một bức tường ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng, dù về chính trị hay là thực thể vật chất. Điều khiến chúng tôi quan ngại nhất là khi cường quốc khai thác những xung đột địa phương cho mục đích riêng của họ.

Thủ Tướng Chu: Trong những phản đối của Nga Sô về bản thông cáo giữa chúng tôi với quí quốc hình như họ đặc biệt bày tỏ sự phản đối về nguyên tắc chung: “Không bên nào nên làm bá chủ.” Họ có nghĩ là điều đó nhắm vào họ không?

Tiến Sĩ Kissinger: Họ không nói, nhưng hình như họ nghĩ rằng điều đó có thể nhắm vào họ. Chúng tôi cho rằng nó nhắm vào những quốc gia muốn tạo chế độ công quản. Tôi có một thắc mắc lý thú từ Ấn Độ - không biết Thủ Tướng có nghĩ vậy không. Họ nói rằng khi Á Châu - Thái Bình Dương không bao gồm Ấn Độ, vậy những gì chúng tôi nói tức là chúng tôi thỏa thuận để Trung Hoa công quản Ấn Độ (cười). Nên tôi nói với họ là không đúng. Tôi mong Thủ Tướng không phật ý.

Thủ Tướng Chu: Ấn Độ là một quốc gia hết sức mập mờ. Đó là một quốc gia rất to lớn. Nhiều khi họ làm ra vẻ một quốc gia lớn, nhưng nhiều khi họ có mặc cảm tự ti.

Tiến Sĩ Kissinger: Họ bị khống chế bởi ngoại bang qua gần hết lịch sử của họ.

Thủ Tướng Chu: Vâng, đó có thể là một trong những nhân tố lịch sử. Và một nhân tố nữa là quá nhiều cạnh tranh vĩ đại trên thế giới. Bây giờ chúng ta sang tới vấn đề Đông Dương - Tôi muốn nghe ông trình bày.

Tiến Sĩ Kissinger: Thủ Tướng có nói ông có vài nhận định muốn nói với tôi. Có lẽ chúng ta nên đổi vị trí để Thủ Tướng phát biểu trước.

Thủ Tướng Chu: Có những vấn đề cần tranh luận, và chúng tôi muốn nghe ông trước để biết giải pháp của ông cho vấn đề.

Tiến Sĩ Kissinger: Thủ Tướng muốn gợi ý là sau khi nghe tôi trình bày tôi sẽ thuyết phục được khiến mọi tranh luận sẽ biến mất, và sẽ không còn điều gì thêm để Thủ Tướng phải nhận định?

Thủ Tướng Chu: Tôi không có những dự tính đó, nhưng tôi thực sự mong sẽ giảm thiểu được những tranh luận.

Tiến Sĩ Kissinger: Tôi sẽ trình bày sự thẩm định thật vô tư của chúng tôi. Tôi biết không hợp với ý Thủ Tướng, nhưng tôi nghĩ dù sao nó cũng ích lợi để Thủ Tướng hiểu quan điểm của chúng tôi về hiện tình. Và tôi sẽ trình bày tình hình từ khi Bắc Việt bắt đầu vụ tấn công ngày 30 tháng 3. Tôi tin rằng tôi đã giải thích với Thủ Tướng những mục tiêu tổng quát của chúng tôi ở Đông Dương. Hiển nhiên không phải mục tiêu của chính phủ này là sẽ duy trì vĩnh viễn những căn cứ tại Đông Dương hoặc tiếp tục chính sách khởi xướng bởi vị tổng trưởng ngoại giao đã từ chối bắt tay Thủ Tướng. Không phải như vậy? Chúng ta đang ở một giai đoạn lịch sử khác. Chúng tôi tin rằng tương lai quan hệ của chúng tôi với Bắc Kinh quan trọng vô biên cho tương lai của Á Châu hơn là những gì xảy ra tại Phnom Penh, tại Hà Nội hoặc ở Sài gòn. Chắc Thủ Tướng còn nhớ khi Tổng Thống Johnson đưa quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam ông biện minh rằng vì một phần những gì xảy ra tại Đông Dương đã được kế hoạch tại Bắc Kinh và là một phần của âm mưu thôn tính toàn cầu. Dean Rusk đã diễn đạt như vậy trong một bản tuyên bố. Rồi quí quốc tiến hành cuộc Cách Mạng Văn Hóa và không, với những gì tôi đọc, nhấn mạnh đến phiêu lưu ra ngoại bang.

Với thực tế chúng ta đang ngồi họp trong phòng này đủ thay đổi nền tảng mục đích của cuộc can thiệp đầu tiên tại Đông Dương. Là người thừa hưởng cuộc chiến vấn đề của chúng tôi là tìm cách thanh toán nó với một phương thức không ảnh hưởng đến uy tín toàn cầu của chúng tôi và - đây không phải là mối quan tâm chính của Thủ Tướng - để ổn định nội bộ tại Hoa Kỳ. Nên chúng tôi đã chân thành cố gắng để chấm dứt chiến tranh, và Thủ Tướng có thể biết hoặc không biết, tôi đã đích thân khởi xướng thương lượng với Bắc Việt năm 1967 khi tôi còn ở bên ngoài chính quyền khi không được quần chúng ưa thích, vì tôi tin rằng phải có một giải pháp chính trị để chấm dứt cuộc chiến. Rồi từ khi chúng tôi nắm chính quyền chúng tôi đã cố gắng chấm dứt cuộc chiến. Và chúng tôi hiểu, như tôi đã thưa với Thủ Tướng trước đây là, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một nhân tố vĩnh viễn trên bán đảo Đông Dương và có thể là một thực thể mạnh nhất. Và chúng tôi đã không có ý định tiêu diệt họ hoặc ngay cả đánh bại họ. Sau khi chiến tranh chấm dứt chúng tôi sẽ triệt thoái xa 12 ngàn dậm. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vẫn chỉ cách Sài gòn 300 dậm. Đó là một thực tế mà họ có vẻ không hiểu.

Thủ Tướng Chu: Điều mà họ quan tâm tới là vụ gọi là Việt Nam Hóa chiến tranh của quí quốc.

Tiến Sĩ Kissinger: Nhưng họ có một sự thiếu tự tin kỳ lạ. Chúng tôi đã cố gắng làm gì? Chúng ta hãy quên “họ là bậc thầy về phân tích những điểm khác nhau nhưng quên những khái niệm toàn bộ”. Chúng tôi đã cố gắng tách rời hậu quả quân sự ra khỏi hậu quả chính trị để rút ra khỏi vùng và để những thế lực địa phương tự xếp đặt tương lai của họ. Thật rất kỳ lạ, phía Bắc Việt đã cố níu chúng tôi ở lại để chúng tôi giải quyết vấn đề chính trị cho họ. Thí dụ như ngày 30 tháng 5 vừa qua, chúng tôi đã đề nghị là chúng tôi sẽ triệt thoái tất cả lực lượng nếu có sự ngưng bắn và hoàn trả các tù binh.

Đúng là ngày 31, không phải 30. Phía Bắc Việt sẽ ở đâu ngày hôm nay nếu họ đã chấp thuận dề nghị này. Tại sao? Vì họ muốn chúng tôi lật đổ chính quyền và đặt để chính quyền của họ vào. Chúng tôi không thương lượng. Tôi cố gắng giải thích điều chúng tôi suy nghĩ.

Hậu quả thực tế của những đề nghị của chúng tôi vẫn là để chúng tôi triệt thoái. Hậu quả thực tế của những đề nghị của họ là giữ chúng tôi ở lại.

Họ có hỏi chúng tôi “có một đòi hỏi họ đưa ra mà chúng tôi đã không đáp ứng, không thể đáp ứng và sẽ không đáp ứng, dù phải trả với giá nào với những quan hệ khác”, và đó là chúng tôi lật đổ những nhân vật chúng tôi vẫn thường giao thiệp và cũng là những người tin tưởng ở chúng tôi, đã có một hành động nào đó. Đây không phải là sự ưa thích cá nhân của một nhân vật nào đó đối với những nhân vật liên hệ. Không phải vì chúng tôi muốn có một chính quyền thân Mỹ ở Sài gòn. Tại sao chúng tôi lại muốn một chính quyền thân Mỹ ở Sài gòn khi chúng tôi có thể sống với những chính quyền không thân Mỹ tại các quốc gia to lớn hơn nhiều ở Á Châu? Vì rằng một quốc gia không thể bị đòi hỏi để ràng buộc vào một hành động phản bội to lớn và coi đó như một nền tảng của chính sách đối ngoại.

Thủ Tướng Chu: Ông nói triệt thoái những lực lượng. Ông muốn nói triệt thoái toàn bộ Lục quân, Hải quân, Không quân, các căn cứ và tất cả?

Tiến Sĩ Kissinger: Năm ngoái khi tôi ở đây, Thủ Tướng đã hỏi tôi điều này. Tôi đã trình Thủ Tướng chúng tôi muốn lưu lai một số cố vấn. Rồi Thủ Tướng có nói một câu rất hay về hậu quả của cái mà Thủ Tướng gọi là “để cái đuôi ở lại.” Phần lớn do lời nói đó, chúng tôi, trong vòng một tháng, đã thay đổi đề nghị của chúng tôi nên bây giờ bao gồm luôn việc triệt thoái toàn bộ cố vấn trong những loại Thủ Tướng nêu lên bây giờ. Chúng tôi đã chuẩn bị triệt thoái tất cả lực lượng..."

Thứ hai, trên Website dạy lịch sử của trường THPT Lý nhân- Tỉnh Hà Nam của chính quyền cộng sản Việt Nam có bài viết về quan hệ Việt Nam - Liên Xô cũng đã khẳng định: "Từ năm 1973-1975, Liên Xô chuyển sang Việt Nam 65.601 tấn hàng hậu cần và trang bị vũ khí, kỹ thuật. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo cho quân dân ta đẩy mạnh các hoạt động quân sự và giành thắng lợi quyết định trên chiến trường, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (1-1973) và đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đi đến kết thúc... Trong những năm 1974-1975, Liên Xô đã cố gắng giải quyết những nhu cầu thiết yếu của Việt Nam về lương thực, thực phẩm, xăng dầu, sắt thép..., góp phần tích cực phát triền kinh tế Việt Nam." 

Qua đoạn trích quý vị thấy gì? Đó là một khối lượng khổng lồ viện trợ của Liên Xô dành cho Việt Nam cộng sản trong thời gian sau hiệp định Paris 1973. Ngoài ra quan trọng hơn chúng ta thấy, sau năm 1973 trong khi VNCH bị cắt giảm viện trợ thì VNDCCH lại được tăng viện thêm đáng kể và đặc biệt còn được xóa nợ. Nếu không vì lý do xâm lược trái phép, vi phạm hiệp định Paris thì là điều gì khiến cộng sản tăng cường quân sự chuẩn bị như thế?

Quý vị có thể tìm hiểu bài viết qua link: 

Thứ ba, trên website của báo BBC Việt Ngữ có bản thống kê viện trợ của VNDCCH nhận được theo từng giai đoạn. Bài viết trích dẫn ngay bài viết của hai tác giả cộng sản thuộc viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, hai tác giả đó là Lê Quang Lạng và Trần Tiến Hoạt. Bài viết của hai tác giả trên có đoạn: "Tham luận ghi nhận trong 21 năm chiến đấu, Việt Nam đã "nhận được sự ủng hộ chí nghĩa, chí tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em." Bài báo này viết: "Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn."

Như vậy ta có thể thấy liên tục qua nhiều năm viện trợ quân sự của VNDCCH đến từ các nước cộng sản gần như không suy suyển mà thậm chí còn tăng lên, đặc biệt là từ sau khi ký hiệp định Paris 1973. 

Quý vị có thể tìm hiểu qua link sau: 

Thứ tư, quý vị hãy nghe người Trung cộng nói gì về sự việc VNCH bị Mỹ bỏ rơi. Trong cuốn sách "Trung quốc và Đông Nam Á" của hai tác giả La Cường - Kim Văn được xuất bản bởi Nhà Xuất bản Lý luận Trung ương Trung quốc trang 56 có đoạn "Trung hoa có công lớn trong việc đẩy Hoa Kỳ vào một thế bị động kinh tế cũng như quân sự trên chiến trường Việt Nam. Chính điều này dẫn đến hậu quả tất yếu của sự thoái lui hoàn toàn, bỏ mặc sống chết chính quyền Sài Gòn của Hoa Kỳ sau năm 1973. Quan trọng hơn chính việc này giúp cho VNDCCH giành ưu thế tuyệt đối trong cuộc đối đầu quân sự năm 1975..."

Vậy thì chúng ta thấy được điều gì qua đoạn trích? Đó chính là việc người "anh em" của đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm biết điều đó và công nhận rằng chiến thắng của VNDCCH trước VNCH chỉ là một sự tất yếu khi Mỹ bỏ rơi đồng minh của mình. Và quan trọng hơn đây là một trong những âm mưu để xé bỏ hiệp định Paris của chính quyền cộng sản.

II. Sử dụng trái phép trẻ em trong chiến tranh:

Kính thưa quý vị,

Trong quá trình xâm lược trái phép VNCH, tiến hành chiến tranh phi nghĩa gây nên cảnh đau thương cho dân tộc Việt Nam chúng tôi thì đảng cộng sản cũng đã vắt kiệt sức lực của dân tộc. Bằng nhiều thủ đoạn ép buộc thanh niên phải vào Nam chiến đấu cho lợi ích của đảng như cắt khẩu phần ăn, hộ khẩu, ruộng đất, đầy đọa những ai không muốn tham gia chiến tranh phi nghĩa. Đồng thời, đảng cộng sản còn vi phạm công ước quốc tế về trẻ em cũng như sử dụng trẻ em trong chiến tranh. Điều này chúng tôi xin gửi đến quý vị những dẫn chứng như sau.

Thứ nhất, trên báo Dân trí của đảng cộng sản có cho biết một người đã tham gia du kích và khủng bố từ khi mới 14 tuổi: "Năm 1964, khi đó chỉ mới 14 tuổi, chị đã quyết định tiếp bước bố và anh trai đi theo con đường cách mạng. Chị tham gia Đội thiếu niên An ninh mật làng Hà Xá và được giữ chức vụ Đội trưởng. Đội hoạt động trên địa bàn hết sức nguy hiểm, phức tạp; ban ngày là địch chiếm đóng càn quét, ban đêm là lực lượng cách mạng của ta bí mật về hoạt động." 

Những ngày đầu tham gia cách mạng, dù tuổi đời còn trẻ song bằng mưu trí, sự khôn khéo, chị luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Lúc chị cải trang thành đứa trẻ chăn trâu, đứa cắt cỏ thuê để bí mật chuyển vũ khí, thuốc men vào căn cứ cách mạng; khi chị hóa thân vào làm người bán hàng rong trà trộn vào lòng địch cài bom hẹn giờ nổ đánh xe, tiêu diệt địch..."


Qua đây cho thấy đảng cộng sản đã sử dụng một em bé gái khi đó mới 14 tuổi vào cuộc chiến khủng bố “cài bom hẹn giờ”. Như vậy việc làm này của đảng cộng sản đã vi phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em.

Thứ hai, cũng về việc sử dụng trẻ em trong cuộc chiến là trường hợp của ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chính ông này và báo giới cộng sản tiết lộ ông Dũng tham gia quân đội cộng sản lúc 12 tuổi: "Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kể với Hagel rằng ông đã tham gia cách mạng khi mới 12 tuổi".


Đây là một ví dụ cho thấy trẻ em đã được sử dụng như một công cụ chiến tranh của cộng sản. Một hành động phi pháp của đảng cộng sản Việt Nam cần được lên án.

Thứ ba, một người được báo giới cộng sản cho là năm 14 tuổi đã được chính Hồ Chí Minh phong cho danh hiệu “dũng sỹ diệt Mỹ”. Đây là sự việc thêm bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh và đảng cộng sản chủ trương lạm dụng trẻ em sai mục đích: “Năm lên 8, chị trở thành một liên lạc nhanh nhẹn, gan trường bên dòng sông Thu Bồn... Đến khi nghe gà gáy, biết trời sắp sáng, tôi vác cây súng Krăng M2 chạy về báo cho bộ đội địa điểm giấu súng. Tôi là người con gái đầu tiên của miền Nam được phong Dũng sĩ diệt Mỹ", chị Thu nhớ lại.”


Trong đoạn trích từ báo Người Đưa Tin của nhà cầm quyền cộng sản cho thấy, đảng cộng sản thậm chí còn sử dụng trẻ em ngay từ lúc 8 tuổi để hoạt động cho mình. Đây là hành động bóc lột sức lao động cùng như sử dụng trẻ em sai mục đich trong chiến tranh của đảng cộng sản.

Thứ tư, xin gửi đến quý vị một bài báo của nhà cầm quyền cộng sản giới thiệu một lúc 3 trẻ em được đảng cộng sản sử dụng vào mục đích khủng bố: Đoàn Văn Luyện: Quê Quảng Ngãi, Luyện lẳng lặng mạng lựu đạn phục kích định hạ chiếc trực thăng Mỹ. Không đánh được, Luyện quăng trái lựu đạn vào tụi Mỹ, giết 5 tên, Em gài mìn bẫy giặc rất mưu trí và diệt thêm 9 tên nữa. Thành tích giết giặc đó đã đưa em tới danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ nhỏ tuổi”... Hồ Văn Mên: Mên đã tiêu diệt gần 80 tên địch gần gấp 6 lần tuổi mình. Tại đại hội chiến sỹ thi đua tỉnh, Mên được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tặng 3 danh hiệu: “Dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt cơ giới và dũng sĩ quyết thắng cấp ưu tú... Kơ- Pa - Kơ - Lơng: Người đội viên anh hùng của núi rừng Bơ-lây-me… Mười lăm tuổi, đánh tổng cộng 30 trận, khi trở thành chiến sỹ giải phóng, anh lại được tuyên dương là anh hùng các Lực lượng vũ trang Giải phóng Miền Nam.”


Như vậy điều luật về quyền của trẻ em đã bị đảng cộng sản Việt Nam vi phạm nghiêm trọng. Đồng thời cho thấy đảng cộng sản còn dung trẻ em vào khủng bố là một hành động phi nhân cần phải nghiêm minh xét xử.

III. Tiếp tục chiến thuật khủng bố nhân dân:

Kính thưa quý vị!

Về cơ bản chính đảng cộng sản Việt Nam đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm và can thiệp của một quốc gia độc lập, có chủ quyền đó là VNCH. Điều này hiện nay đã được hé mở nhiều hơn trong nhiều tài liệu gần đây. 

Thứ nhất, trên trang chủ của đảng bộ tỉnh Bến Tre cũng đã công nhận sự kiện này. Đoạn văn có viết “Tháng 12-1959, Hội nghị đại biểu các tỉnh miền Trung Nam Bộ được triệu tập để truyền đạt Nghị quyết 15 của Trung ương và bàn chủ trương chuyển hướng phong trào. Đêm 2-1-1960, Hội nghị cán bộ lãnh đạo Bến Tre do Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập tại một địa điểm ở Mỏ Cày để truyền đạt nghị quyết của Trung ương và bàn kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá thế kiềm kẹp của địch. Nghị quyết của hội nghị là phát động một tuần lễ nổi dậy đồng loạt trong tĩnh từ 17-1-1960 đến 25-1-1960. Ngày 17-1-1960, theo kế hoạch đã định, cuộc Đồng khởi nổ ra thắng lợi đúng như dự kiến tại 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (Mỏ Cày).”

Quý vị có thể xem nội dung bài viết trên trang chủ của tỉnh ủy Bến Tre theo link sau: 

Như vậy rõ ràng cộng sản Việt Nam công nhận sự “nổi dậy” chính là một hình thức kích động bạo lực mà người khởi điểm là đảng cộng sản. Vậy thì ai là kẻ can thiệp vào nội bộ quốc gia khác? Đó chính là đảng cộng sản Việt Nam. Đây là một hành động khủng bố trái với luật pháp quốc tế. 

Thứ hai, theo một tài liệu do đảng cộng sản ấn hành, Việt Minh đã để lại miền Nam 60.000 đảng viên (trích trong Tổng Kết Cuộc Kháng Chống Thực Dân Pháp, Thắng Lợi và Bài Học, Hà Nội, 1996): “Cán bộ và đảng viên được đặt dưới quyền lãnh đạo của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ. Vào ngày cuối cùng của thời hạn tập kết ở Cà Mau, sau khi chúng ta đánh lừa địch bằng cách giả bộ lên tàu tập kết, đồng chí Lê Duẩn đã tìm cách rời khỏi tàu vào lúc nửa đêm để ở lại.” 

Như vậy, rõ ràng miền Bắc đã chuẩn bị tấn công miền Nam ngay khi Hiệp Ước Genève chưa kịp ráo mực, chứ không phải vì miền Nam không chấp nhận tổng tuyển cử vào năm 1956 hoặc vì có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại miền Nam mà đảng cộng sản luôn tìm cách tuyên truyền mị dân, sai sự thật. 

Và kết quả là cuộc “đồng khởi” Bến Tre cũng chỉ là chiêu bài khủng bố chính trị cũng như đời sống nhân dân VNCH dưới chiêu bài “Nhân dân Chống Mỹ” mà thôi. Khi mà Mỹ chưa nhảy vào thì kích động “nổi dậy” làm gì? Đó chẳng phải là hành động can thiệp vào nội bộ một quốc gia độc lập là gì nữa? 

Thứ ba, để kết hợp với sự kiện “Đồng Khởi” được kích động bởi trung ương đảng cộng sản Việt Nam thì đảng cộng sản cũng tiến hành công cuộc xâm chiếm chủ quyền một nước khác một cách bất hợp pháp một cách có hệ thống. Họ cho thành lập đoàn 559 khi chưa có bóng dáng quân Mỹ tại Việt Nam với khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước”. 

Đây là nguyên văn bài viết trên trang của ban tuyên giáo trung ương Việt Nam“Ngày 19-5-1959, “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” - Đoàn 559 ra đời, với nhiệm vụ mở đường, đưa đón cán bộ, bộ đội, vũ khí, đạn được, lương thực… từ miền Bắc vào miền Nam và vận chuyển vật chất giúp nước bạn Lào. Được khai sinh vào ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5), đường mang tên "Đường Hồ Chí Minh".”

(Quý vị có thể kiểm chứng ở website có địa chỉ sau: 

Qua đó quý vị có thể thấy đảng cộng sản đã chủ trương “đồng khởi” kết hợp với xâm chiếm VNCH - một quốc gia hợp pháp ngay từ khi quân Mỹ còn ở tận đâu đó bên nhà của họ. Trên thực tế người Mỹ trước năm 1965 chỉ vào Việt Nam dưới dạng cố vấn xây dựng quân đội cũng như hoạt động nhân đạo. (Xem “Những sự thật cần phải biết” - bài 2). 

Thứ tư, để làm rõ âm mưu kết hợp “đồng khởi” với xâm chiếm này thì hãy xem người Liên Xô - đàn anh của cộng sản Việt Nam nói gì. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” - bởi nhóm tác giả đã từng hoạt động trong KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động tình báo của Liên Xô (quý vị có thể tham khảo giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!” có đoạn ở trang 130 có viết: “Chính quyền VNDCCH dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh có đường lối rõ rệt để có thể tiến công Miền Nam Việt Nam. Họ biết kết hợp kích động nổi dậy do các chiến sỹ nòng cốt được cử vào Miền Nam làm chỉ huy với việc cho xây dựng con đường vận tại chiến lược 559 sau này mang tên của chính chủ tịch Hồ Chí Minh...” 

Đoạn trích cho thấy Liên Xô đánh giá và nói rất đúng về cái gọi là “kích động nổi dậy” và kết hợp xây dựng con đường nhằm gây nên cuộc chiến huynh đệ tương tàn và phi nghĩa. Điều này minh chứng nhân dân “nổi dậy” chỉ là cái hình thức cho một sự xúi giục có chỉ huy của cộng sản Việt nam tại VNDCCH. Nhân dân cả hai miền đã bị cộng sản lừa dối.

Thứ năm, trong cuốn sách “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học”, Nxb. CTQG, H, 1995, có đoạn viết: “Kết hợp đấu tranh xuống đường với nổi dậy vũ trang khiến cho chính quyền Mỹ-Diệm rối loạn và thiệt hại về kinh tế cho chúng là phương pháp cách mạng bạo lực đem lại thành công...” 

Qua đoạn trích chúng ta thấy gì? Đó là một đảng chủ trương đem hình thức khủng bố đến với nhân dân một nước khác mà họ lại đánh giá tự hào cho thấy bản chất xấu xa của đảng cộng sản. Ngoài ra điều này cũng minh chứng cho sự thật là các cuộc “nổi dậy” thực chất chỉ là những cuộc kích động khủng bố của đảng cộng sản. 

Thứ sáu, trên trang chính dư địa chí của tỉnh ủy Thừa Thiên Huế với link:

Có đoạn viết: “Tháng 11/1957, Tỉnh ủy Thừa Thiên họp tại bản Ấp Rùng, xã Thượng Long miền Tây Thừa Thiên Huế. Hội nghị đã quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên Huế thành căn cứ cách mạng. Tỉnh ủy bố trí cán bộ từ đồng bằng lên, cùng với một số cán bộ đã cắm bản từ trước kiên trì bám trụ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào nhanh chóng giác ngộ, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ bằng vũ khí thô sơ đã nảy sinh trong phong trào quần chúng. 

Giữa lúc phong trào cách mạng miền núi Thừa Thiên Huế đang có bước chuyển biến quan trọng thì ánh sáng Nghị quyết 15 (1/1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) về đường lối cách mạng miền Nam được truyền đến Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà. Tỉnh ủy khẩn trương tổ chức học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương. Một trong những nhiệm vụ chiến lược của Nghị quyết Trung ương 15 là việc mở đường 559 - đường Hồ Chí Minh. Miền núi Thừa Thiên Huế với con đường 559 nối liền mạch máu với cả nước từng bước trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng.” 

Cũng trên trang này ở bài viết khác có đoạn: “Sau năm 1963, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tích cực, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt nhằm đưa phong trào lên một thời kỳ mới, thời kỳ phá kìm, giành dân, đưa phong trào đồng bằng lên thế đấu tranh chính trị, quân sự, tiến công địch bằng cả ba mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận. 

Đầu năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế chủ trương: “Phát huy sức mạnh của quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, lợi dụng sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn mà tổ chức lực lượng, tiến công mạnh mẽ, đều khắp, làm tan rã, tê liệt chính trị, tư tưởng và tổ chức, phá ấp chiến lược, chuẩn bị thiết thực cho việc phá thế kìm kẹp của địch”. Thực hiện chủ trương trên, nhân dân Thừa Thiên Huế bước vào phong trào đồng khởi đồng bằng năm 1964. 

Đến mồng 5 rạng ngày 6/7/1964, phong trào đồng khởi diễn ra khắp vùng đồng bằng trong tỉnh. Ở phía Bắc tỉnh, nhân dân nhiều xã nổi dậy phối hợp với bộ đội và đội công tác võ trang tiến hành tấn công địch, phá ấp chiến lược, xóa bỏ ngụy quyền, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở cơ sở và chính quyền tự quản của nhân dân. Phong trào Đồng Khởi đã mở ra một vùng giải phóng rộng lớn gồm nhiều xã: Phong Sơn, Phong An, Phong Thái, Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương (Phong Điền), Phong Nhiêu, Quảng Thái (Quảng Điền) và Hương Vân, Hương Thọ, Hương Hồ, Hương Mai, Hương Thái, Hương Bình, Hương Thạnh (Hương Trà). Ở phía Nam, lực lượng vũ trang phối hợp với nhân dân tấn công và nổi dậy giải phóng các xã Phú Đa, Phú Hồ và một số thôn của Vinh Phú, Vinh Thái, Phú Xuân, Phú Lương (Phú Vang); Lộc An, Lộc Tụ (Phú Lộc); nhiều thôn xã của xã Thủy Bằng, Thủy Thanh, Thủy Phương (Hương Thủy)...”


Qua hai đoạn trích trên đây cho thấy xuyên suốt quá trình trước năm 1965 mặc dù chưa hề có quân Mỹ tại VNCH và đặc biệt là những chính sách của nền đệ nhất cộng hòa như “Người cày có ruộng” hay “Cải cách kinh tế” đã làm cho đời sống nhân dân đi dần vào ổn định thì hành động của đảng cộng sản chỉ đạo hoàn toàn là dùng bạo lực khủng bố nhân dân, chính quyền và xâm phạm quyền tụ chủ của đất nước khác. Những kích động bạo lực đó minh chứng cho chủ trương sắt máu của đảng cộng sản. 

Kính thưa quý vị! 

Chính bởi chính sách khủng bố đã được hoạch định mà hậu quả là làng xóm của VNCH bị tan hoang, thành phố bị đánh bom, người dân bị chết, nhân sỹ bị ám sát. Trong suốt thời gian từ năm 1969 đến 1975, do được chuẩn bị rất kỹ về chiến lược khủng bố nên đảng cộng sản đã gây nên những cuộc khủng bố đẩm máu. Trong bản cáo trạng này, chúng tôi xin gửi đến quý vị những ví dụ điển hình sau đây.

Thứ nhất, trên trang baomoi.com có dẫn trích một bái báo của báo quân đội nhân dân của đảng cộng sản Việt Nam với link: 

Có đoạn viết nguyên văn như sau: “Diễn biến trận đánh như sau: Phi Long đi xe máy mô-bylet chở một trái mìn đi trước, đồng chí Rãy đạp xe giả làm người bán báo chở một trái DH10 đi sau đủ tầm nhìn thấy nhau. Gần đến cầu Hang, Phi Long đi chậm lại quan sát, chờ thời cơ vượt trạm gác. Khi người dân tập trung đi về phía giữa cầu, lợi dụng đông người che khuất, Phi Long cho xe vượt qua, đồng chí Rãy cũng đạp xe theo qua khỏi trạm gác cùng lao nhanh về hướng mục tiêu. Dừng lại một phút để quan sát, thấy 3 tên cảnh sát vẫn đứng trước cầu thang lên xuống nhà hàng, còn phía trên bờ sông 4 tên cảnh sát đứng dàn hàng ngang súng tiểu liên cầm tay, hai tên công an chìm đi lại ngay bãi trống đối diện nhà hàng. Tại các ngã tư địch tăng cường xe bọc thép và bọn lính dã chiến hình thành thế bảo vệ quanh mục tiêu. Đây là một sự bất thường xảy ra trong khu vực, một tình huống ngoài dự kiến. Nhưng Phi Long quyết tâm là phải đánh và đây cũng là thời cơ đánh khi địch tập trung cao nhất. Anh động viên đồng chí Rãy: Dù hy sinh hai anh em mình cũng phải hoàn thành nhiệm vụ trước Đảng và Quân đội trong trận đánh này. Quan sát thêm, Phi Long thấy có vài người bán hàng rong qua lại trước mục tiêu và kế đó lại có hàng bán thuốc lá. Nhìn đồng hồ đeo tay chỉ còn vài phút nữa thôi, Long liền chạy xe cập mục tiêu. 

Long tự nhủ thật bình tĩnh để địch không nghi ngờ phát hiện, anh dừng xe máy nhắm đúng hướng mìn thổi vào 2/3 thân tàu. Mồ hôi rịn đầy trên trán, song anh vẫn cố tỏ ra ung dung thản nhiên móc tiền bước đến quầy mua thuốc lá, những tên công an vẫn qua lại không biết gì. Chỉ còn 2 phút nữa thôi, trái mìn DH10 sẽ nổ. Anh nhanh chóng đi đến bên cạnh công viên, áp sát người vào một trụ cột, lợi dụng bóng tối bỏ 2 trái thủ pháo xuống sông rồi lẹ làng lách người qua công viên cách đó 5m nhảy lên chiếc xe gắn máy mà đồng chí Tám Sâm đã để sẵn. 

Đồng chí Rãy cũng đã gài xong quả mìn định hướng thứ hai. Hai người lên xe, vừa chạy ra khoảng 50m thì trái mìn thứ nhất mà Phi Long gài đã nổ. Lao xe đến bùng binh Nguyễn Huệ thì Long bị cảnh sát chặn lại khám xét, kiểm tra thấy giấy tờ hợp pháp bọn chúng để cho hai người đi. Vừa lúc đó, trái mìn thứ hai của đồng chí Rãy gài nổ tiếp. Cả Sài Gòn như bừng lên khí thế tiến công. Tiếng còi báo động của địch vang lên inh ỏi, đường phố trở nên một cảnh tượng hỗn loạn, chỉ riêng những người lính đặc công biệt động mừng vui khôn tả.

Vài phút sau, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cũng có mặt và chứng kiến cảnh tan nát này đã lắc đầu thất vọng và ủ rũ cúi đầu leo lên xe như không dám tin vào những gì vừa xảy ra.

Ngày 23-6-1965, Huỳnh Phi Long được cấp trên tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhất, các đồng chí Lê Văn Rãy, Tám Sâm, Kiều Nương và Nguyễn Thị Hoài đều được tặng huân chương Chiến công hạng 3. Riêng tập thể đội biệt động 67 được tặng thưởng huân chương Quân công hạng 3.”

Qua đoạn trích chúng ta thấy gì? Đó là sự chuẩn bị khủng bố kỹ lưỡng và hết sức táo tợn. Còn ngay sau đó là sự kiện ông Long và đội quân khủng bố của ông được thưởng huân chương cho thấy tính chất dã man không còn tính người của những người cộng sản. Hãy xem vài bức ảnh trong cuộc khủng bố đó để thấy sự thật:




Khủng bố Huỳnh Phi Long 

Thứ hai, Uwe Siemon-Netto, ký giả nổi tiếng người Đức sau khi đi theo một tiểu đoàn Miền Nam vào ngôi làng bị Việt cộng khủng bố năm 1965 báo cáo như sau: 

“Lung lẳng trên các cành cây và sào trong sân làng là thân xác xã trưởng, người vợ và 12 đứa con vừa trai, vừa gái kể cả cháu bé. Tất cả nam đều bị cắt cu dái nhét vào mồm, còn nữ bị cắt rời vú. Dân làng được lệnh bắt buộc tập trung chứng kiến cảnh tàn sát. Việt cộng bắt đầu giết em bé rồi với một điệu bộ thao diễn chậm rãi ra tay lần lượt giết các em lớn, tới giết người mẹ và sau cùng là giết người cha. Việt cộng đã giết cả nhà 14 người, giết một cách lạnh lùng như thể bấm cò súng đại liên bắn máy bay”.

“Việc VC tàn sát thế này là việc bình thường hàng ngày... Vì với chúng tôi nó đã trở thành bình thường nên chúng tôi không tường thuật tới, tường thuật lui mãi mãi”. 

Đây là đoạn tạm dịch của nguyên bản tiếng Anh: 

“Dangling from the trees and poles in the village square were the village chief, his wife, and their twelve children, the males, including a baby, with their genitals cut off and stuffed into their mouths, the females with their breasts cut off". The Vietcong had ordered everyone in the village to witness the execution. They started with the baby and then slowly worked their way up to the elder children, to the wife, and finally to the chief himself... It was done very coolly, as much an act of war as firing anti-aircraft gun. " It was routine... Because it became routine to us, we did not report it over and over again”. (Trích trong cuốn “The Real War” của cựu tổng thống R. Nixon trang 39-40.)

Qua đây cho thấy bản chất dã man của đảng cộng sản mà nhân dân VNCH phải gánh chịu. Đảng cộng sản đâu có “nổi dậy” mà thực chất họ đang khủng bố một quốc gia khác.

Thứ ba, vụ thảm sát mậu thân tại Huế năm 1968 cũng là một trong những minh chứng tang thương cho số phận của nhân dân vô tội VNCH trong chính sách tàn bạo và khủng bố của đảng cộng sản. Quý vị có thể đọc lại những con số khủng khiếp của sự kiện này tại phần 14 -“Những sự thật không thể chối bỏ - Ai làm cho Huế đau thương”. Chúng tôi xin chỉ nêu lại một điều đó là qua các dẫn chứng trong phần 14 của các bên liên quan cho thấy con số từ 4000-5000 là con số người chết oan trong tết mậu thân 1968 ở Huế.

Vấn đề con số chính xác đến từng người không phải là vấn đề quá quan trọng. Ở đây là dù với con số hàng nghìn, 4000 hay 5000 nghìn cũng cho thấy tội ác mà cộng sản đã gây ra cho nhân dân Huế vô tội. Đó là tội ác giết người cần phải được lên án. 


Thứ tư, sự kiện pháo kích tại Cai Lậy. Là chiến dịch khủng bố Việt cộng đã pháo kích hỏa tiễn (DKZ 122 mm) vào trường tiểu học tại thị trấn Cai Lậy, tỉnh Định Tường, (Tiền Giang) ngày 9 tháng 3 năm 1974. Đúng ngay vào lúc các em đang trong giờ ra chơi. Giết chết 32 em học sinh và 55 học sinh khác bị thương. Vụ thảm sát tuy nổi tiếng, gây ấn tượng mạnh trong dân chúng lúc bấy giờ nhưng không được thế giới biết đến nhiều, cũng như không được báo chí nhắc đến. 

Hiện còn 3 người tận mắt chứng kiến cuộc pháo kích của VC sáng ngày 9/3/1974 vào Trường Tiểu Học Cộng Đồng Cai Lậy thuộc tỉnh Định Tường làm chết tại chỗ 29 em học sinh. Chính ba người này đã đích thân bồng các em bị thương đầy máu me lên xe cứu thương chở về Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa tỉnh Định Tường cấp cứu. Ba người này, 2 người hiện đang sống ở Westminster, California, Hoa Kỳ; 1 người hiện sống tại Jacksonville, Florida, Hoa Kỳ. 

...Hỡi bé thơ ơi, sao tội tình gì em lại bỏ đi, em lại bỏ đi
Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp, 
Bạn bè còn ngồi chăm chỉ lắng nghe.
Sao em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi....
(Nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác bài hát nhằm tố cáo 
Việt cộng pháo kích dã man vào trường tiểu học ở Cai Lậy)

Sự kiện tại Định Tường đã không được báo chí nhắc đến nhiều và phía đảng cộng sản cho rằng đó chỉ là sự “bịa đặt” nhưng rất may mắn là nhân chứng còn sống và những hình ảnh như trên đã nói lên tất cả sự thật. Nhưng ngoài ra rất may một tài liệu của nhóm KGB tại Liên Xô đã xác nhận sự kiện này. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” bởi nhóm tác giả đã từng hoạt động tại KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động tình báo của Liên Xô (đã giới thiệu ở trên) có đoạn ở trang 200 nhắc: “Có vài sự kiện mà phía quân đội VNDCCH gây ra thiệt hại cho trẻ nhỏ mà sau này được giấu đi như một phần tất yếu của cuộc chiến như cuộc tấn công bằng DKZ và 122mm vào một trường học tại Miền Nam Việt Nam năm 1974”. Cuốn sách như một lời khẳng định của người đàn anh Xô Viết cho sự kiện gây tội ác này của đảng cộng sản Việt Nam.

Thứ năm, về sự thật của cuộc “nổi dậy” tại Bến Tre hãy nghe những người đứng đầu chế độ cộng sản kể thành tích. 

Trong cuốn Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, 1985, tr. 397 có viết: “Cuối năm 1959 tại nhiều nơi ở Nam Bộ, quần chúng đã vùng lên diệt ác, phá kìm, khiến cho bộ máy tề ngụy của hàng trăm thôn, xã phải tan vỡ. Đặc biệt đêm 17-1-1960, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Bến Tre, nhân dân huyện Mỏ Cày đã nổi dậy khởi nghĩa đồng loạt mở đầu cho một cao trào mới. Từ đó, làn sóng “Đồng khởi” như nước vỡ bờ lan ra toàn tỉnh Bến Tre và khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ” (1).

“... Những cuộc đấu tranh cách mạng ấy thực chất là cao trào khởi nghĩa của quần chúng, bao gồm những cuộc khởi nghĩa từng phần, để giành thế mạnh về chính trị, xây dựng một hình thức chính quyền cách mạng ở thôn xã, hình thức bước đầu lực lượng vũ trang của nhân dân” (2).

Và kết quả của nó ra sao? Trong bài giảng về lịch sử của đảng cộng sản có viết:“Sau một tuần: 22 xã được giải phóng, 29 xã khác tiêu diệt ác ôn, vây đồn, giải phóng nhiều ấp”. 

Quý vị có thể xem tại links:

Như vậy cho thấy những người cộng sản rất hả hê về những “thành tích” khủng bố của họ mà cụ thể là họ làm cho các xã phường tiêu điều và kiệt quệ, dân lành bị chết oan.

Thứ sáu, vụ ám sát ông giáo sư Nguyễn Văn Bông mà cho đến nay người cộng sản cho rằng đó là thành tích của họ. Trên tờ báo Dân Việt của đảng cộng sản Việt Nam có bài báo “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn”(http://danviet.vn/41332p1c24/toi-am-sat-nguoi-sap-lam-thu-tuong-sai-gon.htm)

Theo wikipedia, ông Nguyễn Văn Bông sinh ngày 2/6/1929 tại Gò Công (Tiền Giang) trong một gia đình lao động. Ông nổi tiếng là một học sinh học giỏi và tự lập. Năm 12 tuổi đã tự làm những nghề như sửa xe đạp, phụ đánh máy, quét dọn trường học để kiếm tiền đi học (vì cha mẹ ly dị). Ông tự đi du học bên Pháp, tốt nghiệp với bằng tú tài, cử nhân luật từ Đại học Sorbonne (1956), tiến sĩ chính trị học (1960), thạc sĩ công pháp quốc tế (1962). Ông về nước dạy học, và sau này giữ chức viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh (thời ông Thiệu). Cuối năm 1968 ông làm chính trị, thành lập Phong trào Quốc gia cấp tiến, một tổ chức đối lập với chính phủ của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông bị mưu sát lần đầu vào năm 1968, nhưng đến lần 2 (1971) ông bị ám sát chết lúc mới 42 tuổi. Gs Nguyễn Văn Bông qua đời để lại vợ mới 30 tuổi, hai trai và một gái. Sau 1975, vợ ông là Lê Thị Thu Vân, còn gọi là “Cô Út” (người ông gặp ở Paris) bà tái giá với một nhà ngoại giao Mĩ là Lacy Wright, và lấy tên mới là Jackie Bông Wright. Sau này bà có viết và xuất bản một cuốn sách giống như hồi kí có tựa đề là Autumn Cloud: From Vietnamese War Widow to American Activist (Mây mùa thu: từ một góa phụ chiến tranh đến một người hoạt động xã hội).

Lúc mới nghe tin ông bị ám sát, phu nhân ông là bà Thu Vân tố cáo thủ tướng Trần Thiện Khiêm là thủ phạm giết hại chồng bà. Lời tố cáo này xuất phát từ suy luận rằng Gs Nguyễn Văn Bông đã nhận lời làm thủ tướng trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu (và thế là ngăn chận bước đường công danh của ông Trần Thiện Khiêm - người sau này là thủ tướng). Thế nhưng bà Thu Vân đã sai. Người ám sát Gs Nguyễn Văn Bông là ông Vũ Quang Hùng, tức tác giả bài viết đã nói trên trong tờ Dân Việt. Ông Vũ Quang Hùng, theo như một nguồn tin, lúc đó là sinh viên năm thứ ba Đại học Khoa Học Sài Gòn (tức Đại học Khoa học Tự nhiên ngày nay) và là thành viên của tổ trinh sát vũ trang của Ban An Ninh T4. Còn người ngồi sau xe honda là Lê Văn Châu như trong bài báo tường thuật là trung úy quân đội VNCH nhưng đồng thời cũng là cơ sở của An Ninh T4. Nhưng chi tiết về cuộc ám sát thì chỉ mới tiết lộ gần đây, nhất là qua bài báo tuần này. Theo lời kể trên Dân Việt thì hai người trinh sát giết ông bằng cách ném cái cặp da chứa chất nổ và lựu đạn dưới gầm xe của ông đang ngừng tại đèn đỏ ngã tư cao Thắng – Phan Thanh Giản. Giáo sư Nguyễn Văn Bông chết tại chỗ cùng những người thân cận ông (3 vệ sĩ và 1 tài xế).

Vũ Quang Hùng, Lê Văn Châu và chiếc xe của ông Nguyễn Văn Bông 

Và tên khủng bố Vũ Quang Hùng đã kể lại hành vi giết hại một giáo sư, một nhà giáo của mình một cách tự hào như sau “Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”.

Đoạn ghi lời nói trên cho thấy tình chất dã man của đảng cộng sản vì tại sao họ lại phải giết hại một giáo sư dạy học và họ lại phải lo sơ sự dân sự hóa chính quyền VNCH? Đó chính là sự thật là đảng cộng sản chẳng phải chống chính quyền quân sự của ông Thiệu như họ từng tuyên bố mà họ chống cả những người đang theo đuổi mục đích dân sự và dân chủ hóa VNCH. Đó thực sự là chính sách khủng bố.

Thứ bảy, trên báo Dân trí của nhà cầm quyền cộng sản đã có bài viết cho thấy họ đang cố tình vinh danh cho hành động khủng bố của mình đối với người dân Việt Nam. 

Quý vị có thể thấy trong bài viết đã miêu tả như sau: “Lúc đó tôi với tư cách là Trung đội phó lực lượng Nhân dân tự vệ cũng được điều động về hành binh danh dự. Quân địch sẽ không chú ý nên tôi nghĩ cơ hội thành công rất lớn” - chị cho biết. Cơ hội đã đến. Trước ngày ám sát Tổng thống Thiệu, chị chuẩn bị chu đáo, mọi vị trí đã được bố trí sẵn sàng hành động. 

Cuối cùng giây phút chờ đợi đã đến. Tổng thống Thiệu xuất hiện trong bộ comple màu xám tro bước lên lễ đài dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt của cảnh sát, binh lính vòng trong vòng ngoài. Hôm ấy bỗng trời nổi cơn giông gió thổi mù mịt. Thấy cơ hội ngàn năm có một đã tới, chị nhanh nhẹn quàng chiếc áo mưa, chen vào đám đông rút súng nhằm thẳng vào Tổng thống Thiệu bóp cò. Cạch, cạch 2 phát nhưng súng không nổ. Lúc này mặt chị tái đi, khẩu K54 trên tay chị rung rung như chùn xuống. Quá may mắn, lúc này quân lính đang bao vây lấy Thiệu che mưa nên không phát hiện ra chị. Ngay lập tức, chị cùng hai đồng đội quyết định rút lui”.

Khẩu súng lục K54 Mão dùng mưu sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu 
hiện đang được trưng bày tại Phòng VHTT huyện Triệu Phong. 

Trong sự kiện này, dù Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu may mắn thoát chết nhưng cho thấy đảng cộng sản đã chủ trương tiến hành chính sách ám sát đối với chính khách của nước khác. Đó là một tội ác cần phải xét xử nghiêm minh. 

Thứ tám, xuân Mậu Thân qua, nước mắt nhân dân chưa kịp khô thì Mùa Hè Đỏ Lửa với Đại Lộ Kinh Hoàng 1972 lại đến. Sau trận Mậu thân, cộng sản đại bại. Quân Bắc Việt chết hàng chục ngàn, lực lượng MTGPMN gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Đó là bài học nướng quân và giết dân đầy tội lỗi của đảng CSVN. 

Không lâu sau ngày Hồ Chí Minh chết, Lê Duẫn và đảng cộng sản xé bỏ Hiệp định Geneve, xua quân biển người, tràn qua biên giới, tiến đánh Quảng Trị và nhiều căn cứ khác ở Miền Nam năm 1972. Để lại hàng trăm ngàn xác chết của thanh niên Miền Bắc. Quân VNCH chết khoảng hơn 30 ngàn người. Nhân dân VNCH cũng chịu tang thương không kém. 

Ông Phan Văn Châu, một nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ đã mô tả lại sự kiện kinh hoàng trên đại lộ kinh hoàng này như sau: 

"Bên cạnh đó, anh em ST vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 tiếp xúc với Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Chỉ huy trưởng, thiếu tá Nguyễn văn Cơ đã cho nhóm Sóng Thần 200 bao nylon loại dùng để tẩm liệm quân nhân tử trận. Ngoài ra, nhóm mượn được một xe GMC của Tiểu Khu Thừa Thiên làm phương tiện vận chuyển đoàn hốt xác và xác hốt được. Về sau khi số xác lượm được tăng lên tới con số gần hai ngàn, anh Cơ vẫn cung cấp đầy đủ để gói ghém tử thi đồng bào, đồng thời phía Tiểu Khu Thừa Thiên tăng cường cho mượn thêm một xe GMC nữa, và phía Tiểu Khu Quảng Trị cho mượn 2 GMC khác, để di chuyển xác chết.

Sóng Thần đã tiến hành hốt xác tất cả 3 đợt. Khi chị chủ nhiệm Trùng Dương từ tòa soạn ra tham dự để ăn đạn pháo kích là đợt một. Đợt nầy đoàn hốt xác có 4 tổ, mỗi tổ 4 người, thu được trên 800 xác. Về sau đoàn hốt xác tăng lên thành 7 tổ. Sợ mùa mưa tới xác đồng bào bị vữa và trôi hết phần thịt, chúng tôi đã tăng gấp đôi số nhân công để rút ngắn thời gian.

Khởi đầu, thầy Đức Tâm thuê đóng và giao cho đoàn 20 quan tài để mang theo, xem thử đủ thiếu thế nào. Lên đường, anh em ST chúng tôi chỉ dám cầu mong lượm được tới 20 xác như mong muốn của thầy Đức Tâm, vì khu vực giữa hai cầu Bến Đá và Trường Phước là đụn cát trắng không nhà cửa cây cối, hễ thấy bóng người di chuyển là tiền sát viên Việt Cộng gọi pháo tầm xa từ Trường Sơn bắn xuống. Kết quả của ngày đầu thật bất ngờ với con số 96 xác. 20 xác đầu tiên được xếp vào quan tài, phần xác còn lại gói tạm vào bao nylon mang về đặt trong các phòng học của trường Mỹ Chánh". 

Và trong tác phẩm “Mùa hè cháy”, xuất bản năm 2005, tác giả Nguyễn Việt Hải, nguyên là chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của Quân đội Nhân dân của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã viết thật rõ ràng là đơn vị của ông khai hỏa tập trung pháo 122, pháo 130 và pháo 155 mà ông gọi là trận địa pháo cường tập trên Quốc lộ 1 vào đám ngụy quân trên đường bỏ chạy (nhưng thực chất là dân thường). Ông đại tá pháo binh tác giả của tác phẩm “Mùa hè cháy” đã đích thân quan sát trong vai trò tiền sát viên để trực tiếp chỉ huy bắn. 

Đây chỉ là một trong rất nhiều nhân chứng nói lên sự kiện đau lòng đối với dân tộc chúng tôi thông qua chính sách khủng bố năm 1972. Xin mời quý vị theo dõi thêm tại một số links trích dẫn sau đây để thấy bản chất tàn độc của đảng cộng sản: 


Kính thưa quý vị! 

Tội ác của đảng cộng sản đã gây ra là không thể dung thứ. Với tất cả tấm lòng của mình đối với dân tộc Việt Nam. Chúng tôi mong muốn quý vị là những người đại diện cho công luật quốc tế phải lên tiếng vì tội ác của đảng cộng sản đó là những tội ác chống lại loài người. 

CÒN TIẾP... 

Các phần Cáo Trạng đã đăng: 




Bạn đọc có thể gửi thông tin góp ý cho bản cáo trạng và ký vào nội dung cáo trạng theo địa chỉ: 


21/06/2013.